Nguyễn Du

Loading...

Nguyễn Du và “Những điều trông thấy”

Ở một trong những câu thơ mở đầu " Truyện Kiều”, Nguyễn Du viết: “ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Trong thơ chữ Hán, tác giả cũng đã thốt lên: “ Không thể không rơi lệ vì những điều trông thấy”.
 
Một trong “ những điều trông thấy” ấy của Ông là thái độ của nhà thơ với quần chúng lao động và với giai cấp phong kiến thống trị.
 
Đối với những nạn nhân đau khổ nhất trong xã hội, với những kiếp người hèn yếu nhất, bị đày đọa nhất, những kiếp sống lao khổ nhất trong quần chúng, lòng xót thương của Nguyễn Du thật vô hạn, không chút ẩn ý nào. Trong xã hội cũ, bị khinh rẻ nhất là những người đàn bà bán thân nuôi miệng, những ca nhi, kí nữ “ vô loài”. Khác hẳn với cách nghĩ của nhiều nhà Nho đương thời và cả một số học giả sau này nữa, giải thích những người buôn nguyệt bán hoa là do bản tính của họ, Nguyễn Du hiểu cảnh ngộ lỡ làng đã xô đẩy những người con gái xấu số sa chân vào nghề ô nhục mà đành bỏ phí hạnh phúc của tuổi thanh xuân. Nhà thơ thông cảm sâu sắc với nỗi bàng hoàng ngơ ngác của người gái giang hồ khi trở về già sống trong cảnh tồi tàn không nơi nương tựa, với những cái chết “ vùi nông một nấm” không hương khói của họ và cái tiếng vô nhân của xã hội dành cho họ:
 
Nghiệp chướng phấn son lúc sống đã không rửa sạch
Sau khi chết chỉ để lại tiếng gió trăng
                             ( Điếu La thành ca giả)
 
Tình thương mến của Nguyễn Du rộng mở đối với tất cả mọi hạng người bị chà đạp. Nhà thơ dành lòng ưu ái đặc biệt đối với quần chúng lao động. Vấn đề cơm ăn, vấn đề đói rét, vấn đề lao động vất vả luôn là những vấn đề trung tâm của quần chúng lao động. Trong “ Truyện Kiều” hầu như không có thì ở “ Thơ chữ Hán” thành chủ đề lớn. Trong thơ chữ Hán, chỉ hai lần Nguyễn Du dùng từ “ tương” ( –cùng, với ) thì là để gắn kết nhà thơ với những người lao động vất vả. Đó là người đốn củi trong đêm giữa đồng quê:
 
- Đêm trọ giữa đồng quê gặp bác tiều
Thương nhau không cứ ở chỗ giống nhau
( Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành)
 
Là người phu xe giữa trưa nắng lửa trên đường đi Hồ Nam:
- Anh đẩy xe kia ở đâu ta nhỉ
Nhìn nhau thấy vất vả như nhau
( Hà Nam đạo trung khốc thử)
 
 Trong “ Thái Bình mại ca giả”, Nguyễn Du kể lại chuyện một ông già mù đi hát rong để xin ăn. Hôm ấy nhà thơ đi thuyền. Có thuyền bên cạnh gọi ông già xuống hát. Từ bên này nhìn sang, nhà thơ chăm chú theo dõi từ chiếc áo mặc bằng thứ vải thô, từ cử chỉ cảm kích của ông lão khi được người nhận cho nghe hát đến cái vẻ mệt mỏi đuối sức của một người già phải vừa đàn vừa hát suốt một trống canh chưa nghỉ. Đàn hát mệt tới mức “ miệng sùi bọt mép, tay mỏi rã rời”. Mệt nhọc như vậy, rốt cuộc chỉ được dăm sáu đồng tiền. Số tiền thù lao tuy thật bạc bẽo nhưng ông lão vẫn không ngớt lời cảm tạ.
 
Dọc đường đi sứ, Nguyễn Du gặp một người mẹ dắt con đi ăn xin. Đứa bé được người mẹ ẵm trong lòng; đứa lớn xách giỏ tre. Nhà thơ nhìn vào bên trong chiếc giỏ: “ Trong giỏ đựng những gì?/ Rau cỏ lẫn tấm cám”Người đàn bà đi xin ăn từ sáng đến trưa mà vẫn không được gì. Nước mắt đầm đìa vạt áo. Nhưng đau xót hơn là cảnh mấy đứa trẻ còn thơ dại không hiểu được nỗi lo lắng đang vò xé lòng mẹ, cứ thản nhiên vui cười như không. Nhà thơ cảm thông sâu sắc tâm tình của người mẹ khi này:
 
Cảnh chết ngòi rãnh trông thấy trước rồi
Máu thịt nuôi sài lang
- Mẹ chết không đáng tiếc
Vỗ về con mà càng đứt ruột
Lòng đau xót vô cùng
( Trông lên) Trời, mặt trời vàng úa
( Sở kiến hành)
 
Ngòi bút hiện thực của Nguyễn Du thật xót xa khi ghi lại những cảnh sống cơ cực “ dân ăn nửa tấm cám”; cảnh chết vạ vật đầu đường xó chợ, chết nơi ngòi rãnh, chết mà chỉ còn “ một hạt táo lăn ra cạnh người”. Những cảnh này hẳn sẽ là những ấn tượng sâu sắc của nhà thơ để rồi Ông viết thành “ Văn tế thập loại chúng sinh”- bức tranh khái quát về những cô hồn nhan nhản trên cõi dương của cuộc đời thực bấy giờ.
 
Tất cả những buồn thương căm giận, những cảm nghĩ cổ kim dồn lại thành bài thơ kiệt tác “ Phản chiêu hồn”. Bài thơ bộc lộ tập trung và cao nhất con người Nguyễn Du. Bài thơ là lời từ chối  cương quyết cái cõi người sống này. Theo thông lệ, ngày 5 tháng 5 tết Đoan Ngọ, người dân đem đồ cúng ra sông Mịch La nơi Khuất Nguyên trẫm mình để gọi hồn Ông về. Trái với lệ thường, Nguyễn Du bảo hồn đừng trở về cõi đời này nữa. Cõi đời không còn chỗ nào là chỗ có thể dung thân cho những người lương thiện, trong sạch. Sống lương thiện trong sạch đã là chuyện từ thời Tam Hoàng lâu lắm rồi. Còn bây giờ thì “ đông tây nam bắc không có nơi nào nương tựa cả/ Lên trời xuống đất đều không được.” Lời từ chồi cương quyết đó là nhận thức khái quát về lịch sử xã hội: Lịch sử có áp bức là lịch sử ăn thịt người. Nguyễn Du nhận rõ cuộc đời sở dĩ ghê tởm vì thời nào cũng thế, có một bọn người giả nhân giả nghĩa mà độc ác vô cùng được phép ngự trị cuộc sống. Chính bọn này là nguyên nhân của tình cảnh “ dân hàng mấy trăm châu đều xơ xác gầy còm, không một ai béo tốt” Nguyễn Du đã phản ánh cái nhìn bi đát và phẫn uất với toàn bộ cuộc đời: “ Đời sau ai ai cũng là Thượng Quan/ Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La/ Cá rồng không ăn, hùm sói cũng ăn/ Hồn ơi, hồn ơi/ Hồn làm thế nào?”
 
Như thế, “ những điều trông thấy” là những rung động của Nguyễn Du trước hiện thực. Nó sâu sắc và phản ánh rõ con người Nguyễn Du với những phẩm chất tâm hồn nghệ sĩ rõ ràng hơn nhiều, đầy đủ và phong phú hơn nhiều so với những lần nhà thơ trực tiếp hay gián tiếp thổ lộ tâm sự riêng, thổ lộ “ tấc lòng” của mình. Chính ở đây Ông mới trở thành “ nhà thơ” theo nghĩa chân chính của từ này.
 
Bài thơ Phản chiêu hồn:
Phản chiêu hồn

Hồn hề! Hồn hề! hồn bất qui? 
Đông tây nam bắc vô sở y. 
Thướng thiên há địa giai bất khả, 
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi ?

Thành quách do thị, nhân dân phi, 
Trần ai cổn cổn ô nhân y. 
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa, 
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quì.

Bất lộ trảo nha dữ giác độc, 
Giảo tước nhân nhục cam như di! 
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu, 
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.

Hồn hề! Hồn hề! suất thử đạo 
Tam Hoàng chi hậu phi kỳ thì. 
Tảo liễm tinh thần phản thái cực, 
Thận vật tái phản linh nhân xi,

Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan 
Đại địa xứ xứ giai Mịch La, 
Ngư long bất thực, sài hổ thực, 
Hồn hề! Hồn hề! nại hồn hà?

Dịch nghĩa

Hồn ơi hồn , hồn không về 
Đông tây nam bắc không có chỗ tựa 
Lên trời xuống đất đều không thể (về ) 
Yên Dĩnh nội thành lại là nơi (trở về) chăng ?

Thành quách thấy đó, người đã khác 
Bụi trần cuồn cuộn (vấy bẩn) áo người 
Ra thì xe ngựa, vào thì ngồi lỳ 
Ngồi bàn luận như thể ông Cao,ông Quì

Không để lộ vuốt cùng nọc độc 
Cắn xé thịt người ngọt xớt 
Ông không thấy Hồ Nam mấy trăm châu 
Chỉ(thấy) người gầy không(thấy )ai mập

Hồn ơi hồn cứ theo lối ấy 
Sau Tam Hoàng không còn hợp 
Hãy sớm thu hồn trở lại Thái Cực 
Đừng trở lại nơi đây có kẻ mỉa đấy

Người người đời này đều họ Thượng Quan 
Nơi nơi đất đều là sông Mịch La 
Cá rồng không ăn, thì lang sói ăn 
Hồn ơi hồn, hồn tính sao ? 
 

 
                                                                  Chử Anh Đào
          Trường CĐSP Gia Lai
 
Tham quan ảo 3D
Nghiên cứu - Thảo luận

Tìm hiểu Kim Vân Kiều tân truyện ở Thư viện Vương quốc Anh

Trước đây 20 năm, Kim Vân Kiều tân truyện (còn gọi là Kim Vân Kiều hội bản) đã được giáo sư Nguyễn Văn Hoàn(1) và giáo sư Trần Nghĩa(2) giới thiệu sơ qua hoặc kỹ hơn chút ít. Bản này được đánh giá là “bản Kiều quý”, “chưa có ở nước ta”, tuy nhiên chưa ai đi sâu tìm hiểu. Điều đặc biệt ở bản này là có 146 trang thì trang nào cũng có một tranh minh họa chiếm nửa dưới trang, nửa trên dành in lời Tiểu dẫn (trang 2), một đoạn Truyện Kiều, chú thích bằng chữ Hán và lời tóm tắt bằng chữ Nôm nội dung đoạn Truyện Kiều đó. Sách không ghi tên tác giả cùng năm, nơi ra đời, chỉ thấy “trang bìa trong của sách có ghi mấy chữ tiếng Ý, viết bằng bút sắt ‘Anno 1894’; trang cuối sách ghi dòng chữ tiếng Pháp, cũng viết bằng bút sắt: ‘Paul Pelliot, acheté 432 Fr, Porte Sully, Juin 1929, No 518’. Nếu những ghi chép trên đây là chính xác thì các bản vẽ được hoàn thành vào năm 1894; đến năm 1929, Paul Pelliot, một học giả người Pháp mua được và cuối cùng, sách được nhập vào kho Thư viện Vương quốc Anh”(3). Có điều, tranh minh họa thì tôi cảm thấy có phần ngờ do người Trung Quốc vẽ.

Xem tiếp
Di sản văn hóa

Thư viện phim tư liệu

Bộ đếm lượt truy cập

di tich Nguyen Du

Liên kết Website

Bản quyền © 2015 Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới - Ban quản lý khu di tích Nguyễn Du.
Địa chỉ: Xã Tiên Điền - huyện Nghi Xuân - Tỉnh Hà Tĩnh.
ĐT: 02393 826 599        Đăng ký tham quan: 02393 825 133
Email: [email protected]
Chịu trách nhiệm nội dung: Ban quản lý khu di tích Nguyễn Du
Nêu rõ nguồn nguyendu.org.vn khi đăng bài từ website này.