GÓP THÊM VỀ VIỆC PHIÊN ÂM MẤY CHỮ HÁN - NÔM TỒN NGHI TRONG BẢN TRUYỆN KIỀU DO HOÀNG GIÁP NGUYỄN HỮU LẬP CHÉP NĂM 1870

                                                                                                                              
Bước sang những năm đầu của thế kỉ XXI, trong không khí hào hứng chuẩn bị kỉ niệm 240 năm, năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 2005), công việc sưu tầm và nghiên cứu các bản Truyện Kiều chữ Nôm cổ đã thu được những kết quả rất đáng phấn khởi. Năm 2002, cuốn Truyện Kiều bản Nôm cổ nhất Liễu Văn Đường 1871 (LVĐ 1871) được ông Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị. Cũng năm đó GS. Nguyễn Tài Cẩn công bố cuốn Tư liệu Truyện Kiều, bản Duy Minh Thị 1872 (DMT 1872). Sang 2003, ông Nguyễn Quảng Tuân lại trình làng cuốn Truyện Kiều bản Kinh đời Tự Đức. Tháng 5/2004 tại Nghệ An lại sưu tầm được bản Truyện Kiều Liễu Văn Đường Tự Đức thập cửu niên (LVĐ 1866) đã được nhóm Nguyễn Khắc Bảo - Nguyễn Trí Sơn phiên âm và khảo đính, Nxb Nghệ An ấn hành 10/2004. Đồng thời cuốn LVĐ 1866 này cùng được ông Nguyễn Quảng Tuân phiên âm, khảo dị và chủ giải với số đăng kí kế hoạch xuất bản 48/171 ngày15/01/2004 - trước khi tìm thấy cuốn sách tới 4 tháng (?). Cuối năm 2004, Nguyễn Khắc Bảo lại công bố cuốn Truyện Kiều bản Nôm Thịnh Mĩ Đường 1879 (TMĐ 1879) và sắp cho ra mắt cuốn Truyện Kiều - Bản Nôm Tụ Hiền Đường Đông Khánh nguyên niên (THĐ 1886).

Trong số các bản Truyện Kiều trên, cuốn Truyện Kiều, bản Kinh đời Tự Đức do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị đã được sự quan tâm bổ khuyết nhiều nhất của giới nghiên cứu vì những “bí ẩn” tồn tại quá nhiều trong đó. Trên thực tế, ông Nguyền Bá Triệu mới là người đầu tiên phiên âm bản Truyện Kiều chép tay năm 1870 qua công trình “Truyện Kiều - chữ Nôm và khảo dị" in năm 1999 và tái bản năm 2000 ở Canada. Ông đã dựa vào sự giúp đỡ của "các bạn Ngô Hoa, Hoàng Chấn Triều, thầy Thích Quảng Chánh đã đọc, soạn và dịch giùm một số bản chữ Hán — Nôm ' để kết luận: "Người chép kí tên Lâm Nhu Phu chép xong ngày 19 tháng 8 năm Canh Ngọ (1870) tại Tây Hiên Công Bộ: Lâm Nhu Phu có nghĩa là: Người họ Lâm mềm yếu, hẳn là biệt hiệu của một ông Họ Lâm nào đó làm việc tại Bộ Công dưới thời Tự Đức. Họ Lâm xưng là Hoan Châu Tiểu Tô hẳn là người Nghệ An và tự ví minh như Tô Triệt, em Tô Đông Pha hẳn phải là người thơ hay và sức học cũng hơn người. Chữ viết của họ Lâm cứng cỏi và sắc sao vô cùng".

Còn ông Nguyễn Quảng Tuân trong cuốn “Truyện Kiều, bản Kinh đời Tự Đức" lại cho người chép là Hoan Châu Tiểu Tô Lâm Noạ Phu và giảng là "Ông họ Lâm, lấy hiệu là Noạ Phu là có ý khiêm nhường tuy cũng là người có khi tiết".

Đến Nguyễn Hữu Sơn trên tuần báo Văn nghệ số 33 (14-8 - 2004) đã tạm đưa ra kết luận về tên tuổi, hành trạng người đã có công chép Truyện Kiều vào năm 1870 là: "Nguyễn Hữu Lập (1824- 1874) tự Nọa Phu hiệu Thiều Tô Lâm. Người  làng Trung Cần , tổng Nam Hoa , huyện Thanh Chương, phủ Đức Phương, trấn Nghệ An thi Đình trúng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân đệ nhất danh

Ông Nguyễn Tuấn Cường trên tạp chí Hán — Nôm số 3 — 2004 cũng tạm đi tới một số kết luận sau:

“Người “san cải” nên bản Kiều 1870 là Nguyễn Hữu Lập (1824-1874)(?)tự Noạ Phu,hiệu là Tiểu Tô Lâm (nghĩa là Tô Lâm bé, do tên hiệu của cha là Tô Lâm)”.

Chúng tôi xin góp thêm về cách phiên âm tên tự và hiệu của Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập như sau:

1. Tên tự nên phiên là: Nhụ Phu

Chữ các tác giả trên đều chọn là Nhu hoặc Noạ. Ông Nguyễn Quảng Tuân có tìm được một ví dụ rất thú vị: “Nguyễn Du trong bài Kê thị trung từ có câu”:

Quảng Lăng điệu tuyệt dư thanh hưởng
Chính khí ca thành lập noạ phu

Nếu đọc chữ là Nhu thi câu thơ bị thất luật, chữ thứ 6 của câu này phải đọc theo thanh trắc nên chữ phải đọc là Noạ. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh cũng có từ Noạ phu và từ ấy đã được giải nghĩa là “người đàn ông không có khí tiết". Ông Nguyễn Quảng Tuân đã vận dụng sai Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh, vì ở tr.10, học giả họ Đào viết là: Noạ Phu: người đàn ông không có khí tiết. Chữ Noạ này đâu có trùng với tên tự của Nguyễn Hữu Lập mà lại “râu ông nọ cắm cằm bà kia” như vậy.

Vả lại trong Minh đạo gia huấn có câu; “Giáo nhi bất nghiêm, Nãi sư chi noạ” thì chẳng mấy ai theo đạo Nho khi chọn tên tự lại có âm "Noạ phu" khi giao thiệp đọc tên tự rất dễ bị hiểu lầm là “Nãi sư chỉ noạ"( là bởi thầy Lười).

Theo Việt Pháp tự điển của Génibrel soạn năm 1898 thì: chữ Nhu (= Nhụ), Nhát, Faible, craintif, adj.

Nhụ (= Nhu) Faible.      .

Nghĩa là có thể đọc  là Nhu hoặc Nhụ đều có nghĩa là: “Nhát, kém, sợ hãi, thuộc loại tính từ"

Vậy là tên tự của Nguyễn Hữu Lập nên đọc là: Nhụ phu vừa tránh được âm Noạ quá không hợp với nhà Nho và phiên âm câu thơ của Nguyễn Du trong bài Kê thị trung từ cũng rất đúng luật:

Quảng Lãng điệu tuyệt dư thanh thưởng

Chính khí ca thành Lập Nhụ phu.

Vì Nguyễn Hữu Lập là cháu ngoại Nguyễn Du (có mẹ kế là con gái út Nguyễn Du) do tên cha mẹ đẻ đặt là Lập, nên nhân đọc bài Kê thị trung từ này mà chọn cho mình tên tự là Nhụ phu chăng?

2. Tên hiệu nền phiên  là: Thiếu Tô Lâm

Nguyễn Hữu Sơn trên Văn nghệ đã dựa vào thơ văn của Phạm Hy Lượng đỗ Phó bảng cùng khoa với Nguyễn Hữu Lập có bài thơ: Tây hồ khúc yến thứ Thiếu Tô niên huynh nguyên vận (Dân ca yến ẩm ỏ Tây Hồ, hoạ theo nguyên vần của niên huynh Thiếu Tô) và một bài nữa làm trong kì hai người cùng đi sứ nhà Thanh vào năm 1780 - 1872 là Chu trung nguyên đán thứ Thiếu Tô vận (Tết nguyên đán trong thuyền, hoạ theo vần của Thiếu Tô). Để kết luận tên hiệu của Nguyễn Hữu Lập là: Thiếu Tô Lâm. Điều này là đáng tin cậy hơn chữ Tiểu Tô Lâm trong bản Kiều chép tay năm 1870.  Vì chúng tôi ngờ ràng các ông Nguyễn Bá Triệu, Nguyễn Quảng Tuân trong quá trình sao chụp văn bản đã dùng kĩ thuật vi tính xóa các chỗ tưởng là lem bẩn nên văn bản này đã bị sửa nát trườc khi công bố". Nên có thể xảy ra tình trạng xoá mất cả nét phẩy của chữ  (Thiếu) nên thành chữ (Tiểu) chăng? Vậy có thể tin tưởng tên hiệu của Nguyễn Hữu Lập là: Thiếu Tô Lâm, nghĩa là Tô Lâm trẻ vì ông chính là con của Tô Lâm Nguyễn Trọng Dực (1799 -1858) tự Nhũ Hiên, hiệu Tô Lâm. Theo Tiên Điền Nguyễn gia thế phả thì "Thị Đạm( con gái út Nguyền Du) lấỵ chồnglà Nguyễn Hữu Dực, người xã Trung Cần, huyện Thanh Chương, Nghệ An; đậu cử nhân làm tri huyện" (tr.44). Vậy thân phụ Nguyễn Hữu Lập là Nguyễn Hữu Dực (còn gọi Nguyễn Trọng Dực, Nguyễn Nhữ Hiên).

3. Về cách phiên âm một số chữ Nôm trong bản Kiều Nguyễn Hữu Lập 1870

Trong bài Những nghi vấn xung quanh, một bản Kiều, PGS, TS. Đào Thái Tôn sau khi “trao đổi với PGS. TS. Nguyễn Tá Nhí, một chuyên gia nghiên cứu về chữ Nôm và các đồng nghiệp” đã nêu ra 4 chữ trong các câu: 166, 1667, 2119 và bài tựa thuộc loại “không hiểu người chép Truyện Kiều năm 1870 định “bắt” chúng ta phải đọc là gì đây?".

Chúng tôi cũng xin trình bày một vài cố gắng của mình trong việc đọc 4 chữ đó như sau: (Đánh số câu theo bản NHL 1870).

a. Câu 166: Rốn ngồi chẳng tiện, về chỉn khôn.

Chữ thứ 5 của câu này, ông Nguyễn Bố Triệu phiên là “dứt” (?).

Ông Nguyễn Quảng Tuân cũng theo thế mà phiên là “dứt” (?).

Đào Thái Tôn thì thẳng thắn ghi là “chưa biết?'.

Theo chúng tôi chữ (Thủ + Nhiếp) có thể đọc là: Nép với nghĩa là “Thu nhỏ mình lại và áp sát vào vật khác để tránh hoặc để được che chở' (Hoàng Phê - Từ điền tiếng Việt 2004, tr. 664). Liên hệ câu 2660: Treo bầu quảy níp rộng đường vân du. Chữ(Mộc + Nhiếp) đã được đọc là Níp: “Cái tráp, cái hộp đựng sách vở hay quần áo". (Đào Duy Anh - Từ điềnTruyện Kiều, 1974, tr.266).

Trong Giúp đọc Nôm và Hán Việt, tại tr.647, Linh mục Anthony Trần Văn Kiệm cũng đã thu thập được chữ: (Thủ + Nhiếp): Nép = Thu mình cho nhỏ.

Vậy câu 166 trong bản Nguyễn Hữu Lập 1870 có thể đọc là:

Rốn ngồi chẳng tiện, nép về chỉn khôn.

b. Câu 1667: Di hài nhặt  về nhà

Hai ông Nguyễn Bá Triệu và Nguyễn Quảng Tuân đều đọc chữ  ỉlà Nhạnh (?). GS. Đào Thái Tôn cũng bảo là “chưa biết".

Theo chúng tôi, chữ  (Thủ + 1/2 thao) có thể đọc là: Tháu. Vì ( Lão) đọc Nôm là Láu: Bảo)đọc Nôm là báu; (Hảo) đọc Nôm là Háu. Liên hệ câu 2170: Côn quyền hơn sức lược (thao) gồm tài, cũng có phần bên phải giống chữ trên. Vậy câu 1667 là: Di hài nhặt tháu về nhà. Với nghĩa: Nhặt tháu: nhặt “nhanh, không đầy đủ' (Hoàng Phê - Từ điển tiếng Việt 2004, tr. 918) cũng khá phù hợp với cảnh đêm khuya bọn đày tớ phải nhặt di hài trong đống than tro

c. Chữ của bài Tựa: đây chính là một cách viết khác của chữ Thao:(liên hê ) Vậy câu văn trong bài tựa có thể phiên âm: “Tổng chi, vị tình (thao) thao bất (tuyệt)", tạm dịch; Chung quy cũng chỉ vì một chữ tình kéo dài mãi không thôi”.

d. Câu 2119: Nghĩ minh túng đất chân. Ông NBT và NQT đọc là: Nhắc (?).

Xét các chữ Nôm: ( Đột) -> chợt; ( khuyển + đồn) -> chồn.

(Đôi) chui; :thổ + đồn) —> chốn.

( Khẩu + đối) -> chối; ( thuỷ + đốc) -> chuốc

(Theo Giúp đọc Nôm và Hán Việt của Trần Văn Kiệm).

Ta phát hiện ra quy luật: Phụ âm Đ của từ Hán thường được dùng để ghi phụ âm CH của chữ Nôm.

Do vậy chữ ( túc + đại) có thể đọc là CHOẠI.

Với nghĩa: CHOẠI = Trượt chân (Hoàng Phê - Từ điển tiếng Việt 2004, tr. 166):

Vậy câu 219 có thể đọc là: Nghĩ mình túng đất CHOẠI chân.

So sánh 3 câu vừa phiên âm được của bản Nguyễn Hữu Lập 1870:

1. Câu 166: Rốn ngồi chẳng tiện, nép về chỉn khôn.

2. Câu 1667: Di hài nhặt tháu về nhà.

3. Câu 2119; Nghĩ mình túng đất choại chân.

Với các câu của nhóm bản Phường:

1. Câu 166: Rốn ngồi chẳng tiện,(dứt) về chỉn khôn.

Có các bản sau: LĐV 1866: mất, LVĐ 1871, DMT 1872, TMĐ 1879, TVK 1875, QVĐ 1879, THĐ 1886, ATH 3 (KOM 190).

2. Câu 1667: Di hài nhặt sắp về nhà.

Có các bản sau: LĐV 1866: mất, LVĐ 1871, TMĐ 1879, QVĐ 1879, THĐ 1886, ATH 1896, KOM 1902.

Riêng DMT 1872 và TVK 1875 là: Di hài nhặt (gói) về nhà.

3. Câu 2119: Nghĩ mình túng đất ( sẩy) chân.

Có các bản sau: LĐV 1866: mất, LVĐ 1871, DMT 1872, TVK 1875, QVĐ 1879, THĐ 1886, ATH 1896. (KOM 1902  sẩy).

Sự sai khác của bản Nguyễn Hữu Lập 1870 với toàn bộ các bản Kiều cổ nhất kể trên, chứng tỏ Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập dù là cháu ngoại Đại thi hào Nguyễn Du cũng không còn lưu giữ được bản nguyên tác Truyện Kiều. (Vì nếu tin đây là Nguyên tác thì trong văn bản Nguyễn Hữu Lập đã không còn thỉnh thoảng phải khảo dị: Nhất tác). Chúng tôi tán thành nhận định của PGS Đào Thái Tôn:

“Nếu như bản 1872 là bản in đầu tiên thể hiện sự sửa chữa Truyện Kiều trong đời Tự Đức, thì bản Nguyễn Hữu Lập năm 1870 là bản sửa chữa Truyện Kiều chép tay sớm nhất mà đến nay chúng ta được biết".

Nhân đây cũng xin góp ý với ông Nguyêxn Quảng Tuân một điều. Khi đọc các văn bản cổ của những bậc đại khoa như Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập nếu thấy có chữ nào chưa đọc được thì cử chân thành nói rằng “chưa đọc được”. Đừng vội vàng cho rằng các cụ viết sai rồi lập bảng tổng kết “CHỮ NÔM VIẾT SAI TRONG BẢN GỐC” để “ĐỀ NGHỊ SỬA LÀ”, thể hiện sự chưa nghiêm cẩn của nhà nghiên cứu. Lại bộc lộ cho thấy bản Nôm ông dùng là “đã bị sửa nát”, chữ bản Nôm của Nguyền Bá Triệu những chữ ông “đề nghị sửa” ấy vẫn được chép đúng (ỏ các câu 1026, 2305, 2319).

Chữ Nôm là thứ chữ độc đáo do người Việt sáng tạo ra, song do chưa được điển chế nên cách viết, cách đọc còn khá tuỳ tiện. Bản Truyện Kiều do Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập chép tay năm 1870, chữ viết được khen “nét chữ rất cứng cỏi, viết rất chân phương rõ ràng" được ông Nguyền Bá Triệu và nhiều học giả ở Châu Mĩ giúp đọc, ông Nguyễn Quảng Tuân được Trung tâm nghiên cứu Quốc học đọc duyệt và giới thiệu, nhiều chuyên gia nghiên cứu về chữ Nôm cũng góp sức tìm hiểu. Việc chúng tôi trình bày cách đọc của mình như đã trình bày trong bài thực là “đánh trống qua cửa nhờ sấm”. Mong nhận được sự phủ chính của các bậc thức giả xa gần.

Các chữ viết tắt trong bài: Liều Văn Đường 1866 = LVĐ 1866

Liễu Văn Đường 1871 = LĐV 1871

Duy Minh Thị 1872 = DMT 1872

Trương Vĩnh Kí 1875 = TVK 1875

Quan Văn Đường 1879 = QVD 1879

Thịnh Mĩ Đường 1879 = TMĐ 1879

Tụ Hiền Đường 1886 = THĐ 1886

Ấn Thư Hội 1896 = ATH 1896

Kiều Oánh Mậu 1902 = KOM 1902

Tài liệu tham khảo

1.         Génibrel — Việt Pháp tự điển 1898.

2.         Trần Văn Kiệm — Giúp đọc Nôm và Hán Việt, Nxb Thuận Hoá, 1999.

3.         Hoàng Phê (chủ biên) — Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học 2004.

4.         Huỳnh Tịnh Của - Đại Nam quốc âm tự vị, Sài Gòn, 1885 -1886.