Sáng tác của Nguyễn Du mang đậm văn hóa Việt dù ông là người, hơn ai hết, viết nhiều về con ngưòi và đất nước Trung Quốc. Truyền thống văn hóa của hai nước có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt nhau. Đi vào thế giới tâm linh, một khía cạnh của truyền thông văn hóa Việt, trong sáng tác Nguyễn Du, chúng ta thấy một Văn chiêu hồn thấm đẫm màu sắc của thế giới bên kia, một Truyện Kiều bàng bạc không gian của cõi âm và nhất là thơ chữ Hán nhan nhản bày ra những đình, đền, miếu, mộ...Đó là gì nếu không phải là quan điểm, cách nhìn của người sáng tác?

Trong tác phẩm của Nguyễn Du không chỉ có không khí lễ hội mà còn có thế giới của trời, phật, thần thánh, ma quỷ; không chỉ có mồ mả, tha ma, nghĩa địa mà còn có chiêm bao, mộng mi, bói toán, những điều thưòng tồn trong đời sông dân tộc Việt. Nhân dân ta rất thích lễ hội. Hội là những cuộc chơi. Chúng ta có Tết Nguyên Đán ngày đầu năm mới, Tết Thượng Nguyên 15 tháng giêng, Tết Trung Nguyên 15 tháng 7, Tết Hạ Nguyên 15 tháng 10, ngoài ra còn có Tết Thanh Minh, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung Thu, Tết Hàn thực...(l). Những dịp này là cơ hội để mọi người, nhất là nam nữ thanh niên, gặp gỡ trò chuyện, kết bạn, vui chơi... Còn lễ cũng đi kèm với hội dưới hình thức cúng kiếng thần thánh, tiên, phật hoặc người dưới cõi âm như lễ rước thần lúa, lễ cầu mưa, nghi lễ phồn thực, lễ tảo mộ... Đấy là những biểu hiện truyền thống văn hóa tinh thần của dân tộc. Người Việt ưa bói toán, dù thiên cơ bất khả lậu, họ vẫn muốn được biết trước số phận của mình. Những điều in dấu trong cuộc sống của ai đó thì cũng sẽ thường trở lại trong những giấc chiêm bao của họ. Để tin nhau, khi cần, người ta đem trời, đất, thần, phật ra mà thề thốt cùng nhau. Phải giải thích những trớ trêu nghịch cảnh của số phận, người ta dựa vào những cái gọi là mệnh, nghiệp, duyên, kiếp... Con người khi chết chỉ mất đi phần xác, còn lại phần hồn, quanh quẩn bên cạnh người sông. Người sống có thể hỏi ý kiến, xin phép, khấn nguyện... điều gì đó đối với người đã chết. Tục thờ cúng ông bà của ta ngày xưa, thậm chí cho đến bây giờ vẫn thế. Phần hồn đối với người còn đang sống đôi khi được hiểu là cái bóng đi bên cạnh con người lúc nắng trưa hay lúc đêm về. Người ta luôn giữ cái bóng của minh, sợ giẫm đạp lên bóng hoặc khi lao động bằng búa, dao tránh chặt, chém lên bóng của mình, khi ngủ là hồn xuất ra, rời khỏi xác vì vậy tránh bôi bẩn mặt mày người đang ngủ để hồn trở về còn nhận biết xác mà nhập vào... Thế giới tâm linh là một nét văn hóa tinh thần của người Việt, được Nguyễn Du tiếp thu, phản ánh qua tác phẩm của minh không phải có sự sắp xếp định lượng trước, mà nó như bật ra từ sâu thẳm tiềm thức của ông.

Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, thế giới này hiện diện rất rõ. Thanh Lãng nói hơi quá nhưng có cơ sở: "Nguyền Du thi sĩ của niềm tin dị biệt, thi sĩ của mồ mả, tha ma, nghĩa địa...”(2). Thật vậy đã có 84 lần Nguyễn Du nhắc đến mồ mả, đình đền, gò đống trong 250 bài thơ của mình. Đây là không gian của người chết. Quả là Nguyễn Du quan tâm nhiều đến ngôi nhà của người chết. Thực ra trong thơ chữ Hán có bộ phận thơ đi sứ, ở đó ông thường nhắc lại những nhân vật tiếng tăm trong lịch sử Trung Quốc mà ông đã được đọc qua sách và hay chứng kiến tận mắt trên đường đi. tất nhiên phải nói đến mồ mả, đình đài ... tuy không nhất thiết phải vậy! Và ở một số bộ phận thơ khác, trong phong cảnh cũng có lẩn khuất hình ảnh những nấm mộ hoang, những đống xương tàn, những đình đài xiêu ngã...Có phải chính trong Nguyễn Du cũng lẩn khuất những ý niệm về cái chết, về cõi vĩnh hằng mà bản thân ông luôn khao khát muôn khám phá hiểu biết về nó. Trong thế giới của sự sống thì cái chết là một cái gì vô cùng bí ẩn, con người luôn thấy sợ hãi trước nó và muốn hiểu biết về nó. Ai biết nghĩ đến cái chết chính là đang ý thức cuộc sống của mình. Nguyễn Du hơn ai hết đã ý thức về sự sống tạm bợ ngắn ngủi này và luôn lo lắng phập phồng về cái chết. Tại sao nó hủy diệt con người? Tại sao không có một sự sống vĩnh viễn bất tận cho con người? Và khi chết chóc đã là một nỗi lo sợ thì con người tại sao còn thù hằn chém giết nhau? Quả thật thế kỷ XVIII - XIX với bao biến động, con người sát hại nhau, bao nhiêu thiên tai địch họa, bao nhiêu xác người chết đói ngổn ngang... là cơ sở sinh động nhất để Nguyễn Du ưu tư trăn trở về cuộc đời. Vì thế mà bao nhiêu câu hỏi về nhân sinh cứ ngổn ngang khiến Nguyễn Du không thể không đưa nó vào thế giới nghệ thuật của mình. Nó trở thành một mốì bận tâm sâu sắc và hễ lúc nào thuận tiện thì nó bật ra trong thơ. Cho nên những đình đền, gò đống, mồ mả thường phát ra tín hiệu âu lo về cuộc sống nhân sinh và Nguyễn Du là người luôn luôn nhanh nhạy nắm bắt tín hiệu đó và phát sóng đi, lan truyền tới mọi người.

Nếu không thế tại sao cứ gặp mồ mả, gò đống thì Nguyễn Du xúc động?

Vãng sự bi thanh trừng (Thu chí)

(Chuyện cũ bi thương nấm mồ cỏ xanh)

Lộ kinh Tam Tấn giai khâu thổ

(Dư Nhượng chủy thủ hành)

(Đường qua Tam Tấn dẫy đầy gò đống)... Hình như ông muốn kiến giải vể những nấm mồ, những gò đống kia nhưng rồi có lẽ không kiến giải nổi nên ông chỉ nói theo cách nói của người xưa với giọng ngùi ngùi: Thiên niên cổ mộ một Phiên ngu (Triệu Vũ Đế cổ cảnh)

 (Ngôi mộ nghìn năm ở Phiên Ngung cũng đã mất)

Thu thảo nhất khâu tàng thử lạc (Âu Dương Văn Trung mộ)

(Một nấm cỏ thu thành hang chuột cáo) như muôn thấu suốt một điều rằng kể cả cái chết, thời gian cũng vùi lấp. Chỉ có không gian của vũ trụ là trường tồn. Tiến trình đi đến hủy diệt tan rữa ấy không nhường bước trước một ai. Vua chúa hay thường dân cuối cùng cũng chỉ còn lại một nấm đất.

Phong xuy cổ trủng phù vinh tận (Ngẫu thư công quán bích)

(Gió thổi vào nấm mồ xưa bao vinh hoa hảo tan hết)

Cổ kim hiền ngu nhất kháu tho (Hành lac từ II)

(Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ còn trơ lại một nấm đất).

Nấm đất ấy lại tiếp tục đi vào hệ thống tan rã, nó sẽ bị san phẳng hoặc sụp đổ, nghiêng lở để cuối cùng không còn lại dấu vết nào. Con người khi ấy thực sự trở về cốt bụi. Như vậy những vấn đề khác được đặt ra: con người chết rồi sẽ đi đâu, về đâu? Có sự tồn tại của kiếp sau đời người hay không? Kiếp này và kiếp sau có liên quan gì? Khoảng giữa kiếp trước và kiếp sau phần xác tàn rữa, còn phần hồn nương tựa vào đâu, hay cứ phải lơ lửng vật vờ?.... Những câu hỏi không có lời đáp, con người không thể tìm biết được. Vì thế cho nên cái chết đối với con người thật đáng sợ (3). Và cuộc sống hiện tại là tất cả, ông khuyên con người phải biết tôn trọng cuộc sống của mình, phải biết nắm giữ vận mệnh của mình.

Không chỉ chú ý đến những nấm mồ mà Nguyễn Du còn thường xuyên trò chuyện với người đã chết, tức người đang nằm dưới mộ. Người nằm dưới mộ có đủ mọi loại người, Nguyễn Du hầu như quan tâm đến tất cả. Đối với phụ nữ, đó là nàng Tiểu Thanh, cô Cầm, người hầu cũ của en, người đẹp ở đất La Thành, người đàn bà trong đá vọng phu, các bà phi vợ vua Thuấn, chị em TiểuKiều, Đại Kiều thời Tam Quốc, Dương Quý Phi, Ngu Cơ, ba người đàn bà ở miếu Tam Liệt... Và đặc biệt là hình ảnh người vợ hiền đầu gối tay ấp đã mất của nhà thơ trong bài Ký mộng. Tình cảm của ông đối với vợ thật sâu nặng. Ông không ca ngợi vợ như Bùi Hữu Nghĩa, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Kiều, ông thực sự nghĩ về vợ bằng tất cả nỗi nhớ nhung xuất phát từ tình yêu. Nguyễn Du xa nhà năm tháng phiêu bạt, người vợ nếu không mất thì chắc cũng đang chờ đợi héo hon. Ông đã hình dung ra điều ấy. Gặp lại vợ trong giấc mơ, bao nhiêu nỗi niềm trong tưởng tượng được dịp tuôn chảy dạt dào. Nguyễn Du nói trong mộng thấy rõ ràng Mộng trung phân minh kiến nghĩa là thấy rất rõ người vợ từ quê hương lặn lội tìm chồng nơi bến sông, nhan sắc vẫn như xưa tuy áo quần có hơi xốc xếch. Thêm nữa, người vợ vốn không biết đường mà núi Tam Điệp nhiều hổ báo, sông Lam lắm thuồng luồng, đường đi hiểm trở... Vẽ ra bao nhiêu lí do để thấy chuyện đi tìm chồng của vợ là cực kì khó khăn nhưng nhớ nhau quá đành phải liều... nàng chỉ có một lí  do duy nhất là nhớ chồng. Tỉnh cảm mới đẹp làm sao! Vợ Nguyễn Du đã vượt qua tất cả, cả khuê môn lẫn đưòng xa vất vả chỉ để nói ìên tiếng nói tình yêu. Và người chồng càng tuyệt vời, sâu sắc hơn khi tưởng tượng ra tất cả những điều ấy trong giấc mộng.

Giấc mộng làm cho họ được gần nhau. Gần nhau, tình sâu chưa kịp giải bày, mộng đã trở về thực. Nỗi nhớ chưa kịp vơi, nỗi đau càng thêm chất ngất Mỹ nhăn bất tương kiến/ Nhu tình loạn như ti (Người đẹp không thấy nữa. Tình vấn vương rối như tơ).

Ký mộng gợi nhớ đến một bài thơ của Nguyễn Khuyến cùng khóc vợ, gọi hồn vợ:

Đầu bạc cùng nhau hẹn đã lầm .
Hơn năm xa cách hóa trăm năm.
Hồn ơi gọi có về chăng tá?
Mình nhĩ, thương ai phải xót thầm


(Lử thấn khốc nội - Hoàng Tạo dịch) nhưng đấy cùng chỉ mới là nỗi nhớ. Nỗi nhớ

còn âm trầm chưa hiển hiện mặt đối mặt xót lòng, tan tác như giấc mộng của Nguyễn Du. Như vậy thông qua giấc mộng, Nguyễn Du muốn nói điều gì? Thế giới tâm linh tràn ngập trong bài thơ. Mộng - thực. Người sống - người chết. Trần thế - âm phủ. Hai thế giới này có thể tương thông qua hình thức giấc mộng.

Đây vốn là một quan niệm của Nguyễn Du. Còn rất nhiều bài thơ khác Nguyễn Du đề cập đến giấc mộng và chính ông cũng tự nhận thấy mình là người hay sống trong mộng, cũng không chỉ mình ông mà cả thiên hạ đều sống trong mộng:

Tri giao quái ngả sầu đa mộng
Thiên hạ hà nhân khấp mộng trung 
(Ngẫu đề)
(Bạn thân lấy làm lạ rằng sao ta hay sầu mộng
Nhưng thiên hạ ai là người không ở trong mộng?).


Đây là câu thơ bắt được đúng mạch mọi thời đại. Nhiều người vẫn thấy thấp thoáng tâm sự mình qua câu nói ấy. Nguyễn Du đã dùng cách nói của Lão Trang để giải thích nhưng thực ra đây cũng là cách chứng thực cuộc đời. Cuộc đời này với những mong ước chỉ có thể có trong giấc mộng mà thôi. Mà cuộc đời này khác gì giấc mộng Trần thế bách niên khai nhãn mộng (La phù giang thủy các độc tọa). Do đó mà con người luôn thu minh lại với cái bóng, chia sẻ với cái bóng, nhưng rồi ngay cả cái bóng cũng chẳng giải quyết được gì .Bồi hồi đối ảnh độc vô ngữ (Bồi hồi trước bóng mình một mình yên lặng - La Phù giang thủy các độc tọa), Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh (Đêm khuya cô tịch buồn rầu một mình đối bóng - Tống nhân)... Hoặc gửi mộng hồn về nơi chân trời nào xa khuất Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi (Hồn mộng tôi đêm đêm nhập vào thơ Thiếu Lăng - Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I) Hồn hề qui lai bi cố hương (Hồn ơi., về đi, thương cố hương - Ngẫu thư công quán bích I), Thần phách tương cầu mộng diệc nan (Hồn phách tìm nhau trong mộng cũng khó - Ức gia huynh)... Việc tìm nhau trong mộng cũng đã rất khó thì nói gì đến việc thực trong đời thực.

Đối với người tài, người hiền, ông vốn quan niệm rằng xưa nay hiếm, lại hay bị trời đất ghen ghét. Ông mến họ vi họ là những người trung nghĩa, yêu nước thương nòi, trọng dân kính chúa, một đời vì nghĩa lớn quên mình, một lòng tận trung báo quốc. Ông hết lời tuyên dương họ và nêu bật được những nét tích cực nhất của họ. Ông ca ngợi Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành, nghìn năm nằm dưới đất tóc ông vẫn dài nhất định không chịu hàng phục nhà Thanh (Quế Lâm Cù Các bộ). Ông thông cảm cho Liễu Tông Nguyên, một trong bát đại danh gia, thương cho số kiếp đày đọa của con người tài hoa, thấu hiểu vì sao cỏ cây khe suối nơi ông ở đều có tên là Ngu (Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch). Qua sông Hoài nhớ Hàn Tín, Nguyễn Du nhắc đến nghĩa cử cao đẹp đền ơn Phiếu mẫu, nhắc đến tinh nghĩa vua tôi... (Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu). Cũng trên sông Hoài, Nguyễn Du vừa phục tài thơ vừa thâm cảm chính khí của người anh hùng dân tộc thời Nam Tống là Văn Thiên Tường, tác giả Chính khí ca nổi tiếng (Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa tướng). Ông cũng ca ngợi Âu Dương, người được mệnh danh là Hàn Phi đời Tông. Âu Dương là người tài giỏi, tính cương trực thẳng thắn, làm quan thanh liêm, không được lòng bọn quyền quý, nhiều lần bị giáng chức vẫn hết lòng can Vua (Âu Đương Văn Trung Công mộ). Bùi Tấn Công tướng mạo tầm thường mà văn võ song toàn, một đời xả thân cống hiến nhưng cứ bị bọn hoạn quan lộng quyền, phải cáo quan về nghỉ (Bùi Tấn Công mộ). Tỷ Can, Liêm Pha, Dự Nhượng, Kinh Kha đều là những bề tôi trung nghĩa. Tỷ Can chết một gò cây cỏ đều được thành nhân. Liêm Pha nghìn thuở tên tuổi vẫn còn truyền. Kinh Kha một lần ra đi làm lạnh cả dòng nước sông Dịch. Gương trung liệt của Dự Nhượng nghìn đời còn ghi... Nguyễn Du không chỉ thương cảm số phận bi đát của họ mà ông còn khâm phục họ. Dẫu họ chết cách nào hi sinh, bị hại, hay bị lưu đày... thì ông cũng đứng trước mộ, khấn vái, bàn luận, tâm tình, mấy nén hương tưởng niệm, lau chùi bia, chảy nước mắt... thậm chí xuống cả xe để tỏ lòng kính trọng. Hành động này giải thích rõ quan niệm của Nguyễn Du.

Đối với những người mắc một nỗi oan lạ lùng như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nhạc Phi... Nguyễn Du tự xem mình cùng hội cùng thuyền, tự ngồi vào ngã tự cư con thuyền số mạng chòng chành của những nhân vật sống cách ông hàng nghìn năm. Nguyễn Du đau đớn thay Khuất Nguyên Hãy sớm thu tinh thần vào cõi hư vô. Đừng trở lại đây mà người ta mai mỉa (Phản chiêu hồn), nuốt tủi thay Đỗ Phủ Chứng lắc đầu cũ đã hết hay chưa? Dưới đất đừng để cho lủ ma quỉ cười mình (Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lâng mộ I), ngậm hờn thay Nhạc Phi Mười năm huyết chiến để làm nên cái việc. Bị giết ở đình Phong ba để triều đình tạ tội với người Kim (Yển thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ)... Đó là những người tài, một sớm một chiều bị số phận vùi dập. Họ sống giữa đời ôm tài nuốt tiếng, thân xác biến thành tro lạnh, tài hận mang theo.

Còn đối với những kẻ ảc, kẻ xấu thái độ của ông cũng rất rõ ràng. Ông phê phán Tào Tháo, chê giễu Tô Tần, mắng chửi không tiếc lời đối với vợ chồng Tần Cối, kẻ đã hại chết người anh hùng Nhạc Phi...

Chuyện cũ đã qua lâu rồi nhưng Nguyễn Du vẫn muốn trò chuyện cùng họ, ỉluận bàn cùng họ như họ còn ở đâu đó. Dưới tro tàn hoang lạnh hình như họ cũng thấu hiểu được tâm lòng của ông.

Đấy là bàn luận, nghị sự với những người đã nằm dưới mộ, còn đối với những bậc thần minh, hiền nhân, thổ công ở những địa phương mà ông có dịp đi qua thì ông thường có thái độ ngưỡng vọng thực sự. Bởi vì Nguyễn Du xem đó như một chỗ tựa nương để có thể cầu xin, khấn nguyện những điều tốt lành. Ông luôn thấy lo lắng cho kiếp đời mong manh của những con người đang sống. Hằng ngày họ phải qụa lại kiếm sống trên những vùng sông hồ, đồi núi, họ đâu biết nguy hiểm đang rình rập họ. Đi qua những vùng bão lũ: sóng to nước lớn, mưa gió thét gào, bờ sông sụp lở... ông hình dung thiên nhiên sẽ trút hết cơn giận dữ xuống con người. Một loạt bài như Ninh Minh giang, Chu hành, Chu hành tức sự, Bất tiến hành, Vãn há đại than tân lạo bao trướng chư hiểm câu thất... đã nói lên điều đó. Có lẽ vì thế mà đi đến đâu, lúc dừng chân nghỉ trạm ông thường đốt hương khấn vái, kính cẩn nghiêng mình trước các bậc thần minh, hiển nhân, thổ công ở địa phương đó. Có lẽ vừa để tỏ lòng “tri ngộ” nhưng cũng vừa để cầu xin sự bình an trên đường:

Tâm hương bái đảo tướng quân tử {Ha than hỷ phú)
(Thành tâm dâng hương cầu khẩn trước đền tướng quân)
Nhất bôi không điện Lâm giang miếu (Quá Thiên Bình)
(Một chén rượu làm lễ suông tại ngôi đền bên sông)

Đây cũng là nét truyền thống của người Việt ta. Cúng viếng là việc làm thường xuyên của dân tộc Việt, kể cả ngày nay cũng vậy.

Trong Truyện Kiều, không gian du xuân của 3 chị em Thúy Kiều không phải là cảnh quang êm ả mà là không gian của mồ mả, tha ma, nghĩa địa Ngổn ngang gò đống kéo lên / Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay. Sau đó không lâu hình ảnh bóng ma kỹ nử Đạm Tiên xuất hiện. Bóng ma ấy phải chăng còn là sợi dây định mệnh theo suốt cuộc đời của Thúy Kiều? Sự linh cảm, sự hiển hiện của cuồng phong đáp ứng linh nghiệm lời cầu xin của Thúy Kiểu đã cho thấy một ám ảnh không thể tránh khỏi trong cái nhìn của Nguyễn Du Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau. Cho nên Kiều không chỉ sống trong thế giới thực, thế giới của mọi người đang sống cõi người ta với những con người bằng xương bằng thịt cụ thể (cha mẹ, em trai, em gái, những người quen biết...) mà còn sống trong một thế giới vô hình, tuy không nhìn thấy được nhưng luôn luôn ám ảnh, chi phối và dường như nó có quyền năng vô hạn để có thể chỉ lối đưa đường cho nàng (Trời, Phật, hóa nhi, hóa công, con tạo, hồng quân, trời đất, ông tơ, ông xanh, ma quỉ...)- Như đã nói ở trên, người Việt ta xưa luôn tin rằng những thế lực vô hình ấy có quyền phán quyết số mệnh của mỗi người, vì thế con người có thể cầu xin, khấn vái, thề thốt, gọi hồn... như một cách tương thông để các đấng tối cao ấy nghe thấy và giảm bớt hoặc nhẹ tay cho những nghiệp chướng mà con người mắc phải. Thậm chí những việc làm tốt của con người có thể làm cảm động đến trời.

Trong Truyện Kiều nhân vật thề nguyền với nhau rất nhiều. Những từ: Thề, nguyền, nguyện xảy ra 23 lần, câu thề được nói ra 7 lần và một lời (lời thể) 18 lần. Nhân vật than thở với hóa nhi, ông xanh, ông tơ, ông trời... riêng trời xuất hiện 74 lần... Phật, tiên, ma quỉ cũng xuất hiện nhiều lần. Thầy tướng số cũng góp phần chi phối câu chuyện: thầy tướng số" đoán Kiều lúc nhỏ, đạo nhân bói toán khi Thúc Sinh muốn tìm tin tức Kiều khi Kiều bị Hoạn Thư bắt đi. Tam Hợp đạo cô đoán trước số phận Kiều. Kiều cùng là người thích nghe bói toán (nghe Đạm Tiên, hỏi Giác Duyên...). Tài mệnh tương đố, tạo vật đố toàn cũng là quan điểm, cách nhìn của Nguyễn Du. Chữ tài xuất hiện 34 lần: Chữ mệnh xuất hiện 13 lần, nghiệp 6 lần, duyên 63 lần, kiếp 27 lần, chiêm bao, mộng, mơ, hồn, mê 32 lần, bóng 26 lần.,. Đây là những từ ngữ luôn gắn với một thế giới khác, đó là cõi trên, cõi âm, hoặc cõi hồn, cõi mộng... nói chung không phải là cõi trần gian mà con người đang có mặt.

Trong Văn chiêu hồn, tự thân tác phẩm cũng đã cho thấy một cách rõ rệt hai thế giới âm - dương. Người trên cõi thê cúng tế để giải thoát cho các linh hồn chết oan ở cõi âm. Điều này đước làm thường xuyên tại các chùa vào dịp rằm tháng bảy ở nước ta .Dù Nguyễn Du tự sáng tác hay sáng tác theo đơn đặt hàng của một nhà chùa nào đó thì qua tác phẩm này vẫn thấy rõ quan niệm của ông. Ông đang làm công việc mà mọi người dân Việt vẫn làm. Người chết phải được con cháu thờ cúng, nếu không được thờ cúng linh hồn của người chết sẽ bơ vơ lạnh lẽo, không nơi nương tựa. Những người chết oan, chìm sông lạc suối, sảy cối sa cây, leo giếng đứt dây... oan hồn của họ lang thang, đói rét, vật vờ... có khi quấy nhiễu cuộc sống của con người trên trần thế. Những oan hồn này đáng thương, đáng cứu vớt. Nhà Phật với tấm lòng từ bi bác ái, với.bát cháo lá đa, gọi những oan hồn này về và nhờ phép Phật “siêu linh tịnh độ” giúp đưa họ về cõi niết bàn. Tài năng và tấm lòng nhân đạo bao la của Nguyễn Du bắt gặp mảnh đất thiện tâm màu mỡ của nhà Phật, cũng là niềm tin bất biến của người dân Việt lúc bấy giờ, đã tạo ra một Văn chiêu hồn thấm đẫm bản sắc dân tộc, không lẫn lộn với bất cứ ai. Bài văn tế bằng thơ này có chân đế văn hóa dân tộc vững chắc ngàn đời. Nếu nói trong Văn chiêu hồn, cảm hứng đã lấn át đề tài, đã khắc phục được nhược điểm của đề tài để làm nên giá trị của tác phẩm, hoặc mượn hình thức tôn giáo để phê phán xã hội thì đây chỉ là một cách nói gượng gạo, thiếu sự “sòng phẳng” trong phê bình và quên đi cái bản chất văn hóa dân tộc bộc lộ hết sức rõ nét chứ không hề ẩn giấu qua một hình thức nào.

Nhìn chung thế giới tâm linh luôn hiện diện trong sáng tác Nguyễn Du. Điều này rất đặc biệt. Thế giới ấy luôn ám ảnh, chi phối ông làm cho sáng tác của ông đã mang nhiều nét buồn thương lại càng thêm bi thiết vì những nấm mồ, những con người của thế giới bên kia cứ luôn lẩn khuất trong tâm tư ông. Có vẻ như mọi người dân tồn tại trong nền văn minh lúa nước hiền hoà này, người sống cũng như người chết đều được cảm thông, đều được quan tâm đúng mức. Người sống cúng bái trân trọng người chết là để nhớ ơn người đi trước, người chết luôn phù hộ độ trì cho việc làm ăn sinh sống của người đang sống và luôn dõi theo những thành công hay thất bại của họ để an ủi, giúp đỡ. Hoặc nếu người sống cố quá nhớ thương người chết thi có thể gọi hồn để được trò chuyện, hoặc tin cậy mà hỏi ý kiến... Điều này giúp cho con người, cả người sống lẫn người chết đều có một điểm tựa, tựa vào nhau để có thể vững bước trên đường đời. Xa xôi hơn nữa thì nương tựa vào trời phật, thánh thần, ma quỉ là lực lượng có quyền phép và có lòng nhân từ độ lượng có thể hóa giải mọi kiếp nạn. Con người với phần số mong manh, như con ong cái kiến, như cọng rơm nhánh cỏ luôn khao khát vươn tới một cái gì vững bền, chắc chắn, hạnh phúc, sung sướng... cho nên nếu như những điều ấy họ không đạt được trong cuộc sống thực thì họ gửi khát vọng đó vào giấc mộng, vào việc thề nguyền, khấn nguyện, cầu xin... như một thế cân bằng, quân bình trong cuộc sống để vơi bớt những phiền muộn, âu lo. Tất nhiên trong xã hội thanh bình no ấm không còn đau khổ thì người ta cầu xin cuộc sống hạnh phúc mãi được dài lâu.

Điều này đặc biệt trong đời sống văn học nhưng không lạ trong cuộc sống bình thường. Sáng tác của Nguyễn Du vì sao mãi neo đậu trong lòng người dân đất Việt?

Đơn giản bởi một lẽ Nguyễn Du đã nói hộ cho bao người. Suy nghĩ ấy, cách nhìn ấy là suy nghĩ, cách nhìn của người dân. Đó là sinh hoạt thường nhật như ăn ở, đi đứng của họ, vì thế mà họ bắt gặp ở Nguyễn Du tiếng nói của chính họ. Cúng tế, cầu Phật, cầu tiên, gọi hồn, bói toán, mộng mị... là những điều không thể tách khỏi đòi sống văn hóa Việt, nếp sống Việt. Nguyễn Du là cô Kiều, cô Kiểu chính là nhân đần. Nguyễn Du từ nhân dân mà ra, sống giữa lòng nhân dân, mất đi trong sự cảm thương của nhân dân, và sẽ tổn tại đời đời cùng với nhân dân .