www.nguyendu.com.vn
Loading...

“Hồng Sơn Liệp Hộ” phú.


Sáng ngày 21 - 9 Ban QLDT Nguyễn Du tiếp nhận “Hồng Sơn Liệp Hộ” phú từ tác giả Du Phong tại địa chỉ C97 Ấp 3 Xở Tân Hiệp, Long Thành (Đồng Nai).
 
Tác giả Du Phong dâng bài phú "Hồng Sơn Liệp Hộ" tại nhà thờ Nguyễn Du
 
“Hồng Sơn Liệp Hộ” phú gồm 54 câu được tác giả thực hiện trong thời gian gần 3 tháng. Bài phú thể hiện rõ danh gia vọng tộc họ Nguyễn - Tiên Điền, sự nghiệp văn chương, những năm tháng ngao du của Đại thi hào ở quê nhà Tiên Điền - vùng đất với khí thiêng Hồng Lĩnh và nguồn mạch sông La đã hun đúc, ươm mầm nhiều nhân tài hiệt kiệt, danh nhân đất nước.
 
 

HỒNG SƠN LIỆP HỘ PHÚ
Kỷ niệm 250 năm ngày sinh và 195 ngày mất của Đại Thi Hào Nguyễn Du
(01/07/1765 – 18/09/1820)

Dòng tộc nho phong
Gia môn thế phiệt
Khí thiêng Hồng Lĩnh hun đúc nhân tài
Nguồn mạch sông La ươm mầm hiệt kiệt
Nhớ người xưa.
Nức tiếng thơm cửa Khổng sân Trình
Nồng hương đạo Chu Công Phó Duyệt
Bút nghiên nặng nợ chữ thánh hiền đậm chất thanh cao
Ơn nước đa mang câu thần tử trọn niềm khí tiết!
Kết nối gió trăng roi chầu phách nhịp gẫm nòi tình cũng lắm vẻ phong lưu
Giao hảo bạn bè thi họa cầm kỳ đường ứng xử nổi danh người lịch thiệp
Nào hay:
Cơn chính biến tông đường tan nát bước hoạn đồ thẹn với non sông.
Buổi giao thời vận hội trớ trêu đầu bạch phát đau cùng tuế nguyệt (1)
Mộng phù Lê hùng chí dẫu phai tàn
Thanh Hiên ký nỗi niềm lưu thống thiết
Mười sáu năm phong trần luân lạc nỗi cơ cầu con tạo
khéo trêu ngươi?
Năm lăm năm giông tố dập vùi thân đa bệnh trời già sao cay nghiệt!!
Mũ cánh chuồn, lưng đai bạc chốn quan trường hổ cái dàm danh
Câu trung nghĩa ý can trường nơi chín bệ dằn lời tâm huyết
Miếng đỉnh chung mỏi gối sân chầu
Mồi danh lợi mòn lưng cửa khuyết.
Thôi thì:
Tô cơm hẩm đọt rau rừng, vui cùng gió mát trăng trong.
Chung rượu nhạt đĩa tinh diêm thoả với non xanh nước biếc.
Mượn khúc đoạn trường phổ cung bạc mệnh dụng thi thần khóc kiếp hồng nhan
Nương thiên tình sử hý họa nhân tình cậy bút sắc, giải điều oan nghiệp.
Cung trường hận, mắt hoen sầu vạn cổ xót Thuý Kiều chưa thoát nợ đa truân.
Giây oan buồn, lệ đẫm tận thiên thu thương Từ Hải lỡ lầm mưu quỷ quyệt.
Trời tháng bảy mưa ngâu sùi sụt, cõi nhân gian thương kẻ lạc loài.
Tiết thu phân gió bấc lạnh lùng, nơi âm cảnh oan hồn rên xiết
Nỗi đau đời mãi day dứt khôn nguôi,
Lòng nhân ái sao ngậm ngùi da diết?
Cảm khái thay!
Bầu hận sự khôn giải bày tâm khảm, nén tủi hờn rũ áo từ quan.
Mộng công khanh dù ngán ngẩm thế thời cảm ân sủng về kinh phụng tiệp.
Đường thiên lý “Bắc Hành” cống tuế mệnh quân vương ngộ biến tùng quyền
Chốn triều trung kết mối bang giao mang sở học trổ tài biện thuyết.
Viếng Lỗi Dương cộng cảm nổi ai hoài
Khấp Tử Mỹ nghẹn ngào lời “Tam Biệt…” (2)
Chí đồng thanh muôn thuở kính bậc thầy
Dạ đồng khí trọn đời tôn thánh triết.
Hồn phấn đại còn nương làn sương khói, nghiệp văn chương thêm tỏ nét hình hài
Khách râu mày chạnh xót giải gò hoang câu phong vận mơ màng cơn mộng điệp
Đời cuồn cuộn dương tà nguyệt khuyết nỗi oan khiên đâu chỉ gái Tây Hồ
Phận long đong gió giật sóng vùi chữ tài mệnh riêng gì trai Nam Việt. (3)
Cảm phục thay!
Hồng Sơn Liệp Hộ gót vân du còn lưu dấu thiên tài
Đoạn Trường Tân Thanh lời tao nhã hồn thơ bất diệt.
Kim cổ kỳ thư
Văn chương trác tuyệt
Tài hoa chi cho con tạo ghét ghen.
Đa tình lắm để ngàn sau tưởng tiếc.

Long Thành, ngày 27 tháng 07 năm 2015
Nhị Bách Ngũ Thập Niên Bái
Hậu bối Du Phong (Trần Ngọc Chí) cẩn bút

 Chú thích:

1.      Nguyễn Du thân thế và sự nghiệp:
Nguyễn Du sinh ngày 01/07/1765 mất ngày 16/09/1820, ở làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh tự Tố Như hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ.
Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc thời Lê. Cha Nguyễn Nghiễm
(1707-1775) đỗ tiến sĩ làm tới chức Tư Đồ Bình Nam Đại tướng quân,
tước xuân Quận Công. Mẹ Trần Thị Tần (1740-1778) đẹp nổi tiếng đất
Kinh Bắc. Anh cùng cha khác mẹ Nguyễn Khản (1734 - 1786) đỗ tiến sĩ
làm đến chức Thượng Thư Bộ Lại tước Đoản Quận Công. Thủa nhỏ ông ở
cùng cha và anh trai sống tại Kinh Thành Thăng Long. Lên 10 tuổi cha
mất và 3 năm sau mẹ ông cũng qua đời. Năm 1783 ông đi thi và đậu tú
tài; Nguyễn Du sống phong lưu không được bao lâu thì dinh cơ của
Nguyễn Khản bị kiêu binh nổi dậy đập phá tan tành. Nguyễn Khản chạy
lên Sơn Tây rồi về Hà Tĩnh đau bệnh và mất.
Năm 1786 Bắc Bình Vương ra Bắc Hà dẹp loạn lần thứ nhất, ông chạy về
Thái Nguyên sống với người cha nuôi họ Hà. Năm 1788 nhà Thanh cử Tổng
Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân xâm lược nước ta. Bắc Bình
Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Quang Trung đem quân
thần tốc ra Bắc đánh tan tác 20 vạn quân Thanh vào mùa xuân 1789, cơ
nghiệp nhà Lê chấm dứt vào mùa xuân Kỷ Dậu lịch sử.( Từ Thế Tổ Cao
Hoàng đế Lê Lợi đến Lê Chiêu Thống 361 năm 1428 – 1789).
Nguyễn Du về quê vợ ở Thái Bình ẩn náu, 10 năm sống trong cảnh bần hàn
cơ cực, bệnh tật làm tóc ông bạc phơ khi chưa tròn 30 tuổi. Ông rời
Thái Bình về quê cha Hà Tĩnh 6 năm, nhưng cuộc sống cũng chẳng khá gì
hơn. Không như anh ông là Nguyễn Nễ và anh vợ là  Đoàn Nguyễn Tuấn ra
làm quan cho nhà Tây Sơn. Một người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn
Quýnh nổi lên chống lại Tây Sơn 1796 bị giết chết. Lúc này dinh cơ của
Nguyễn Tiên Điền ở Hà Tĩnh bị quân lính Tây Sơn phá sạch. Phần ông
toan vào Nam phò Nguyễn Ánh vì ông nghĩ dù sao Nguyễn Ánh cũng là tôi
thần nhà Lê. Ông bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Thận bắt, vì là bạn của
Nguyễn Nễ hơn nữa cũng tiếc tài ông nên giam ba tháng rồi cho về.
Năm 1802 khi vua Gia Long thống nhất giang san xuống chiếu mời cựu
thần nhà Lê ra giúp nước, không dám kháng chỉ trái mệnh triều đình ông
về kinh, được vua Gia Long phong làm tri huyện Phù Dung thuộc Khoái
Châu nay là tỉnh Hải Hưng ba tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, Sơn
Tây. Trong 19 năm làm quan cho triều Nguyễn ông đã 3 lần xin từ quan,
lần thứ nhất vào mùa thu năm 1804; lần thứ hai 1808 và lần thứ ba năm
1812. Và cả ba lần sau vài tháng vua Gia Long lại có chiếu chỉ vời ông
về kinh thăng chức cho ông: Lần thứ nhất thăng Đông Các Học Sĩ năm
1806, lần thứ hai thăng Cai Bạ Quảng Bình ( bố chánh) 1808, lần thứ 3
thăng Cần Chánh Điện Học Sĩ năm 1813, sung chức chánh sứ sang Trung
Quốc lần thứ nhất và sau khi đi sứ về nước năm 1814 lại thăng chức Hữu
Tham Tri Bộ Lễ. Mặc dù đã làm quan đến chức tòng nhị phẩm triều đình,
nhưng ông biết đây là chính sách khôn khéo dùng người của vua Gia Long
đối với nhân sĩ Bắc Hà, còn quyền chính thực thụ bàn việc cơ mật quốc
gia nằm trong tay những công thần Vọng Các. Buồn chí ông lại xin về
trí sĩ. Khi vua Gia long băng hà 1820, hoàng tử Đảm lên kế vị, hiệu là
Minh Mạng, lại vời ông về triều đi sứ lần thứ 2, ông bệnh và qua đời
vào ngày 18-09-1820. (nhằm ngày 10-8 năm canh dần) hưởng thọ được 55
tuổi.
2.      Sự nghiệp văn học:
Trong những năm tháng về sống ở Hà Tĩnh, ông ngao du cùng phường thợ
săn  khắp 99 ngọn núi Hồng Lĩnh nên có biệt hiệu là Hồng Sơn Liệp Hộ,
gặm nhấm nỗi buồn về sự suy tàn của một vương triều và gia thế, ông đã
để lại cho đời tập Thanh Hiên Thi Tập.
Sau khi về làm quan cho triều Nguyễn tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh
được ra đời từ một tiểu thuyết có tựa đề Kim Vân Kiều Truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân Trung Quốc, bằng ngọn bút tài hoa, ông đã chuyển thể
thành thơ lục bát, và một tác phẩm nữa cũng bằng tiếng nôm “Văn Tế
Thập Loại Chúng Sinh” bằng thể thơ song thất lục bát, hai thể thơ đặc
trưng của Việt Nam, bắt nguồn từ ca dao tục ngữ. Sau khi đi sứ trở về
với thi phẩm Bắc Hành Thi Tập đã làm nổi bật tên tuổi của ông trong
giới văn học của đầu thế kỷ thứ 19.
Kỷ niệm 250 năm ngày sinh và 195 năm ngày mất. Dù đã trải qua bao
nhiêu biến động của thời cuộc, tiếng thơ của ông đã ảnh hưởng sâu rộng
đến mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam dù bất cứ thể chế nào. Không biết
bao nhiêu văn gia, thi sĩ và những học giả phê bình lý luận văn học
tốn bút mực viết về ông, không những trong nước và cả nước ngoài. Tác
phẩm Đoạn Trường Tân Thanh đã được chuyển ngữ truyền bá trên khắp thế
giới: Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Ý, Mỹ,..v..v… Đã nâng
tầm tên tuổi ông đứng ngang hàng với những đại thi hào của nhân loại.

3.      Đỗ Phủ (712 – 770) tự Tử Mỹ hiệu Thiếu Lăng người sau còn gọi là
Đại Đỗ để phân biệt tiểu Đỗ (Đỗ Mục). Mùa xuân năm 759, trên đường lưu
lạc trong loạn An Lộc Sơn từ Lạc Dương đến Hoa Châu ông có sáu bài thơ
nổi tiếng: Thạch Hào Lại, Tân An Lại, Đồng Quan Lại, Tân Hôn Biệt, Vô
Gia Biệt, Thùy Lão Biệt. Tố cáo giai cấp thống trị, vua quan thối nát,
hoang dâm vô đạo, tàn ác gây chiến tranh để lương dân lâm vào cảnh bần
cùng cơ cực, cửa nát nhà tan.
“ Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt”
Trích “Tự Kinh Phó Phụng Tiên” của Đỗ Phủ
    Dịch: Cửa son rượu thịt ôi
Ngoài đường xương chết buốt
Năm 1813 Nguyễn Du làm chánh sứ sang Trung Quốc, ông ghé Lỗi Dương
viếng mộ Đỗ Phủ. Trong Bắc Hành Thi Tập còn lưu lại bài:

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ
Thiên cổ văn chương thiên cổ si (sư).
Bình sinh bội phục vị thường ly.
Lỗi Dương tùng bách bất tri xứ,
Thu phố ngư long hữu sở ti (tư).
Di đại tương liên không sái lệ,
Nhất cùng chí thử khởi công thi?
Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị?
Địa hạ vô linh quỷ bối xi.

Dịch nghĩa Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ
Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời
Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt
Cây tùng cây bá ở Lỗi Dương, không biết ở nơi nào?
Cá rồng trong bến thu, còn có chỗ để tưởng nhớ
Ở hai thời đại khác nhau, thương nhau, luống lệ rơi.
Cùng khổ đến thế há phải bởi tại thơ hay?
Chứng bệnh lắc đầu ngày trước, bây giờ đã khỏi chưa?
Dưới địa phủ đừng để cho lũ quỷ cười.

Bản dịch của Quách Tấn
Thơ thiên cổ cũng thầy thiên cổ,
Vốn một lòng ngưỡng mộ bấy nay.
Lỗi Dương tùng bá đâu đây?
Cá rồng thu lạnh sông đầy nhớ thương,
Há văn chương lụy người đến thế?
Chạnh nghìn xưa dòng lệ khôn ngăn,
Lắc đầu bệnh cũ còn chăng?
Suối vàng chớ để mấy thằng quỷ trêu.
     Độc Tiểu Thanh Ký
Tây Hồ mai uyển tẩn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Nguyễn Du: Bắc hành Thi Tập

Bản dịch của Quách Tấn
Tây Hồ hoa kiểng giải gò hoang
Cửa hé trang thơ chạnh nhớ nàng
Hận luống vương mang hồn phấn đại
Tro chưa tàn hết nghiệp văn chương
Thanh thiên khéo hỏi oan chồng chất
Phong nhã đành cam nợ vấn vương
Rồi Tố Như này ba kỷ nữa
Trần gian ai kẻ ngậm ngùi thương.
Độc Tiểu Thanh Ký: Tiểu Thanh: một giai nhân tài sắc sinh vào thời nhà
Minh, vào khoảng năm 1460-1513 ( Từ Minh Thành Hóa đến Minh Hoằng Trị)
ở làng Tây Hồ Trường An, Trung Quốc. Năm 42 tuổi mà chưa lập gia đình
đành làm lẽ một viên quan tri phủ. Vợ cả vì ghen tuông âm mưu sai
người đêm đến thiêu rụi nhà cửa và bà qua đời. Thương tiếc người tài
hoa bạc mệnh, khi đi sứ ông đến Tây Hồ thăm mộ bà, vào khoảng trên
dưới 300 năm vì cảm thương khách má hồng gặp điều oan nghiệt ông viết
bài thơ trên khóc người xưa, và thầm hỏi 300 năm sau có ai còn khóc
mình không?
Bất tri tam bách dư niên hậu.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?/

Du Phong.

Bài phú “Hồng Sơn Liệp Hộ” là sự tri ân, mến mộ của tác giả Du Phong đến Đại thi hào nhân đại lễ kỷ niệm 250 năm Ngày sinh và vinh danh Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du vào cuối tháng 11 năm 2015.

 

 
Văn Thành
                                                                                                                                         

 

Tin tức sự kiện

Tham quan ảo 3D

www.nguyendu.com.vn

Thư viện phim tư liệu

Bộ đếm lượt truy cập

di tich Nguyen Du

Liên kết Website